Căn cứ phát sinh và Nguyên tắc bồi thường thiệt hại ngoài Hợp đồng

Hướng dẫn mới về “Căn cứ phát sinh” và “Nguyên tắc bồi thường”

Hiệu lực từ 01/01/2023

(theo Nghị quyết 02/2022/NQ-HĐTP ngày 06/09/2022 của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao)

Tranh chấp bồi thường thiệt hại (gọi tắt là “BTTH”) ngoài hợp đồng là loại tranh chấp dân sự thường thấy, diễn ra phổ biến hiện nay. Chế định “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng” đã được quy định tại Chương XXI BLDS năm 2005 (Điều 604 – Điều 630) và được hướng dẫn chi tiết bởi Nghị quyết 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/7/2006 của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao.

Một số nội dung của chế định, tuy nhiên, đã được thay đổi theo quy định của BLDS năm 2015 (Chương XX, Điều 584 – Điều 608). Từ 01/01/2023, “Căn cứ phát sinh” và “Nguyên tắc bồi thường” BTTH ngoài hợp đồng đã được hướng dẫn mới bởi Nghị quyết 02/2022/NQ-HĐTP ngày 06/9/2022 của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao. Hướng dẫn mới có hiệu lực từ ngày 01/01/2023.

1. Hướng dẫn mới về Căn cứ phát sinh trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng

1.1. Loại bỏ yếu tố “lỗi của người gây thiệt hại”

Hướng dẫn cũ (nghị quyết 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/7/2006) quy định “lỗi của người gây thiệt hại” là một trong những căn cứ phát sinh trách nhiệm BTTH. Tuy nhiên, Nghị quyết 02/2022/NQ-HĐTP ngày 06/9/2022 đã loại bỏ yếu tố này.

Hiện tại, căn cứ phát sinh trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng chỉ còn 03 yếu tố:

  • Có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác;
  • Có thiệt hại xảy ra là thiệt hại về vật chất, thiệt hại về tinh thần;
  • Có mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại xảy ra và hành vi xâm phạm. Thiệt hại xảy ra phải là kết quả tất yếu của hành vi xâm phạm và ngược lại hành vi xâm phạm là nguyên nhân gây ra thiệt hại.

Ngoài ra, quy định mới bổ sung một số trường hợp người gây thiệt hại có thể được miễn trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng.

Có thể tóm tắt theo bảng sau:

BLDS năm 2005 và Nghị quyết 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/7/2006BLDS năm 2015 và Nghị quyết 02/2022/NQ-HĐTP ngày 06/9/2022
Có hành vi trái pháp luật.Có hành vi xâm phạm. (bao quát hơn, rộng hơn so với cụm từ “trái pháp luật”)
Có thiệt hại xảy ra (thiệt hại về vật chất + thiệt hại do tổn thất về tinh thần).Có thiệt hại xảy ra (thiệt hại về vật chất + thiệt hại về tinh thần).
Có mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại xảy ra và hành vi trái pháp luật. Thiệt hại xảy ra phải là kết quả tất yếu của hành vi trái pháp luật và ngược lại hành vi trái pháp luật là nguyên nhân gây ra thiệt hại.Có mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại xảy ra và hành vi xâm phạm. Thiệt hại xảy ra phải là kết quả tất yếu của hành vi xâm phạm và ngược lại hành vi xâm phạm là nguyên nhân gây ra thiệt hại.
Lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý của người gây ra thiệt hạiLỗi cố ý hoặc lỗi vô ý của người gây ra thiệt hại
 Trừ các trường hợp đặt biệt (do thỏa thuận hoặc luật quy định), người gây thiệt hại có thể được loại trừ trách nhiệm BTTH trong các trường hợp sau:
– thiệt hại phát sinh là do sự kiện bất khả kháng (“Ví dụ: Nhà của A được xây dựng, đang sử dụng bình thường và không có dấu hiệu hư hỏng. Một cơn lốc xoáy bất chợt, không được dự báo trước đã cuốn mái nhà của A vào người đi đường gây thiệt hại. Trường hợp này là sự kiện bất khả kháng nên A không phải chịu trách nhiệm bồi thường”); hoặc
– thiệt hại phát sinh hoàn toàn do lỗi của người bị thiệt hại (“Ví dụ: A lái xe ô tô (thuộc sở hữu của mình) theo đúng quy định của Luật Giao thông đường bộ, C lao vào xe ô tô của A đang đi trên đường để tự tử. Trường hợp này, A không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do lỗi hoàn toàn của C”)

1.2. Tài sản gây thiệt hại thì chủ sở hữu, người chiếm hữu tài sản phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại

Đây là một quy định mới được bổ sung vào BLDS 2015. Nghị quyết 02 hướng dẫn áp dụng quy định này như sau:

  1. Chủ sở hữu tài sản phải BTTH do tài sản gây ra. Chủ sở hữu được xác định tại thời điểm tài sản gây thiệt hại theo quy định của pháp luật. Trường hợp tài sản đang được giao dịch thì phải xác định thời điểm chuyển giao quyền sở hữu để xác định chủ sở hữu tài sản gây thiệt hại.

    Ví dụ: A bán nhà cho B, hợp đồng mua bán nhà đã được công chứng, B đã giao 80% tiền mua nhà cho A nhưng chưa nhận nhà thì nhà bị cháy, lan sang cháy nhà C gây thiệt hại. Theo quy định tại khoản 1 Điều 12 của Luật Nhà ở năm 2014 thì thời điểm chuyển giao quyền sở hữu là thời điểm bên mua đã thanh toán đủ tiền và nhận nhà, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Trường hợp này, B chưa thanh toán đủ tiền và chưa nhận bàn giao nhà nên A chưa chuyển giao quyền sở hữu nhà cho B. Vì vậy, A vẫn là chủ sở hữu hợp pháp đối với ngôi nhà và phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho C”.

  1. Người chiếm hữu mà không phải là chủ sở hữu phải BTTH nếu đang nắm giữ, chi phối trực tiếp hoặc gián tiếp tài sản như chủ thể có quyền đối với tài sản tại thời điểm gây thiệt hại.

    “Ví dụ: A là chủ sở hữu xe ô tô đã giao xe ô tô đó cho B. B lái xe ô tô tham gia giao thông đã gây tai nạn và gây thiệt hại thì cần phân biệt:

    – Nếu A thuê B lái xe ô tô và trả tiền công cho B, việc sử dụng xe ô tô là do A quyết định. Trong trường hợp này, A là người chiếm hữu, chi phối đối với xe ô tô. Do đó, A phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.

    – Nếu A giao xe ô tô cho B thông qua hợp đồng cho thuê tài sản hợp pháp, việc sử dụng xe ô tô là do B quyết định. Trong trường hợp này, B là người chiếm hữu, chi phối đối với xe ô tô. Do đó, B phải bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”

2. Hướng dẫn mới về Nguyên tắc bồi thường

2.1. Khái niệm “thiệt hại thực tế”

Thiệt hại thực tế” là một thuật ngữ mới, được BLDS 2015 sử dụng thay thế cho thuật ngữ “thiệt hại” trước đây theo BLDS 2005. Thông qua việc sử dụng thuật ngữ mới, nhà làm luật đã “chuẩn hóa” các thiệt hại được xem xét BTTH ngoài hợp đồng là các thiệt hại thực tế, tránh các tranh cãi do thuật ngữ của quy định cũ.

Thiệt hại thực tế”, được hướng dẫn cụ thể bởi Nghị quyết 02, bao gồm “thiệt hại về vật chất” và “thiệt hại về tinh thần”, được tính thành tiền tại thời điểm giải quyết bồi thường. Thiệt hại phát sinh sau thời điểm giải quyết bồi thường lần đầu được xác định tại thời điểm giải quyết bồi thường lần tiếp theo nếu có yêu cầu của người bị thiệt hại.

“Ví dụ: A gây thương tích cho B mà B phải điều trị dài ngày. Tại thời điểm Tòa án giải quyết bồi thường thì tổng thiệt hại thực tế là X đồng, bao gồm: chi phí điều trị, mức thu nhập bị mất hoặc giảm sút; chi phí cho người chăm sóc, tổn thất tinh thần. Sau đó, B vẫn phải tiếp tục điều trị thì các chi phí phát sinh sau thời điểm Tòa án giải quyết sẽ được giải quyết trong vụ án khác nếu có yêu cầu của người bị thiệt hại.”

  1. Thiệt hại về vật chất

    “Thiệt hại về vật chất là tổn thất vật chất thực tế xác định được của chủ thể bị xâm phạm, bao gồm:

    tổn thất về tài sản mà không khắc phục được;

    chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế, khắc phục thiệt hại;

    thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút do tài sản, sức khỏe, tính mạng, danh dự, nhân phẩm, uy tín, quyền và lợi ích hợp pháp khác bị xâm phạm”.

Hướng dẫn mới (Nghị quyết 02) liệt kê 03 loại “tổn thất vật chất thực tế” có thể được xem xét BTTH ngoài hợp đồng. Có thể chia 03 loại tổn thất này thành hai nhóm nhỏ:

Nhóm 1: giá trị bị mất/hao hụt điNhóm 2: giá trị phải bỏ ra thêm để ngăn chặn/hạn chế/khắc phục
– tổn thất về tài sản mà không khắc phục được
thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút
chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế, khắc phục thiệt hại

Lưu ý: dù “tổn thất vật chất thực tế” thuộc nhóm nào, chúng đều phải “xác định được”.

  1. Thiệt hại về tinh thần

    ”Thiệt hại về tinh thần là tổn thất tinh thần do bị xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, quyền và lợi ích nhân thân khác mà chủ thể bị xâm phạm hoặc người thân thích của họ phải chịu và cần phải được bồi thường một khoản tiền bù đắp tổn thất đó”

    Kèm theo yêu cầu đòi BTTH do sức khỏe bị xâm phạm (Điều 590 BLDS 2015), do tính mạng bị xâm phạm (Điều 591 BLDS 2015), do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm (Điều 592 BLDS 2015), người bị thiệt hại có thể đòi thêm bồi thường “thiệt hại về tinh thần”. Mức bồi thường được xác định theo thứ tự ưu tiên như sau:

    – Do các bên thỏa thuận (Tòa án công nhận thỏa thuận của các bên); hoặc

    – Do Tòa án quyết định nếu các bên không thoả thuận được. Mức tối đa: 50 lần mức lương cơ sở cho một người có sức khỏe bị xâm phạm; 100 lần mức lương cơ sở cho một người có tính mạng bị xâm phạm; 10 lần mức lương cơ sở cho một người có danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm. Ngoài mức tối đa, luật không quy định rõ cách thức xác định mức thiệt hại về tinh thần. Do vậy, Tòa án tự đưa ra quyết định dựa trên mỗi tình huống cụ thể, nhưng sẽ không vượt qua mức tối đa do luật quy định.

2.2. “Thiệt hại thực tế” phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời

BLDS 2015 ưu tiên và cho phép các bên tự thỏa thuận về mức bồi thường, hình thức bồi thường (tiền, hiện vật, thực hiện công việc) và phương thức bồi thường (một hoặc nhiều lần). Nếu các bên không thể tự thỏa thuận, Tòa án sẽ quyết định theo nguyên tắc “Thiệt hại thực tế” phải được bồi thường toàn bộ (tất cả các thiệt hại thực tế xảy ra đều phải được bồi thường) và kịp thời (thiệt hại phải được bồi thường nhanh chóng nhằm ngăn chặn, hạn chế, khắc phục thiệt hại). Để đảm bảo nguyên tắc này, Tòa án có quyền áp dụng một hoặc một số biện pháp khẩn cấp tạm thời để giải quyết yêu cầu cấp bách của người bị thiệt hại.

Trên thực tế, công việc khó nhất của quá trình yêu cầu đòi BTTH ngoài hợp đồng là việc chứng minh “thiệt hại thực tế”. Người đòi BTTH phải đưa ra được các “tài liệu, chứng cứ để khẳng định yêu cầu của mình là có căn cứ”. Nói cách khác, người đòi BTTH ngoài hợp đồng phải chứng minh mỗi khoản thiệt hại đáp ứng được các tiêu chí:

  • thực tế”: (i) thiệt hại về vật chất thuộc một trong 03 loại “tổn thất vật chất thực tế” nêu trên và có thể “xác định được”; (ii) thiệt hại về tinh thần phù hợp với quy định của pháp luật;
  • trực tiếp”: có mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại xảy ra và hành vi xâm phạm.

2.3. Các trường hợp Toà án có thể quyết định “mức bồi thường” cao hơn hoặc thấp hơn “thiệt hại thực tế” đã được xác định

Về nguyên tắc, “thiệt hại thực tế” phải được bồi thường toàn bộ. Nói cách khác, “mức bồi thường” cho người bị thiệt hại phải tương đương với “thiệt hại thực tế” mà người đó đã gánh chịu. Tuy nhiên, trong một số trường hợp đặc biệt dưới đây, luật cho phép Tòa án quyết định “mức bồi thường” thấp hơn hoặc cao hơn “thiệt hại thực tế”.

Trường hợp 1: Thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế của người chịu trách nhiệm

Bên gây thiệt hại xin giảm mức bồi thường: nếu thỏa mãn 02 điều kiện: (i) Người chịu trách nhiệm BTTH không có lỗi hoặc có lỗi vô ý; và (ii) thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế của người chịu trách nhiệm (nghĩa là “có căn cứ chứng minh rằng nếu Tòa án tuyên buộc bồi thường toàn bộ thiệt hại thì không có điều kiện thi hành án”).

Trường hợp 2: Khi mức bồi thường không còn phù hợp với thực tế

Bên bị thiệt hại hoặc bên gây thiệt hại yêu cầu Tòa án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác thay đổi mức bồi thường khi mức bồi thường không còn phù hợp với thực tế (“có nghĩa là do có sự thay đổi về tình hình kinh tế – xã hội; sự biến động về giá cả; sự thay đổi về tình trạng thương tật, khả năng lao động của người bị thiệt hại; sự thay đổi về khả năng kinh tế của người có trách nhiệm bồi thường mà mức bồi thường không còn phù hợp với sự thay đổi đó”).

Trường hợp 3: Bên bị thiệt hại có lỗi trong việc gây thiệt hại

Bên bị thiệt hại có lỗi trong việc gây thiệt hại thì không được bồi thường phần thiệt hại do lỗi của mình gây ra. (Ví dụ: A và B cùng lái ô tô tham gia giao thông, xảy ra tai nạn do đâm va vào nhau dẫn đến A bị thiệt hại 100.000.000 đồng. Cơ quan có thẩm quyền xác định A và B cùng có lỗi với mức độ lỗi của mỗi người là 50%. Trường hợp này, B phải bồi thường 50.000.000 đồng cho A (50% thiệt hại)).

Trường hợp 4: Bên bị thiệt hại không áp dụng các biện pháp cần thiết, hợp lý để ngăn chặn, hạn chế thiệt hại cho chính mình

Bên có quyền, lợi ích bị xâm phạm không được bồi thường nếu thiệt hại xảy ra do không áp dụng các biện pháp cần thiết, hợp lý để ngăn chặn, hạn chế thiệt hại cho chính mình: là trường hợp bên có quyền, lợi ích bị xâm phạm biết, nhìn thấy trước việc nếu không áp dụng biện pháp ngăn chặn thì thiệt hại sẽ xảy ra và có đủ điều kiện để áp dụng biện pháp ngăn chặn, hạn chế được thiệt hại xảy ra nhưng đã để mặc thiệt hại xảy ra thì bên có quyền, lợi ích bị xâm phạm không được bồi thường thiệt hại (Ví dụ: Nhà của A bị cháy, B đỗ xe ô tô gần nhà A, B biết được nếu không di dời thì khả năng đám cháy sẽ lan sang làm cháy ô tô của B và B có điều kiện để di dời nhưng B đã bỏ mặc dẫn đến xe ô tô bị cháy. Trường hợp này, B không được bồi thường thiệt hại).

Các tác giả:

Đỗ Phúc Liên Sơn
Luật sư điều hành son.do@doanduclaw.com
Đặng Thị Kim Nguyên
Luật sư thành viên nguyen.dang@doanduclaw.com
Trần Gia Khương
Trợ lý luật sư khuong.tran@doanduclaw.com

CÔNG TY LUẬT TNHH ĐOÀN ĐỨC

Tiếp cận trực tiếp, giải pháp cụ thể

Office:      D.07, 14th Floor, HM Town. 412 Nguyen Thi Minh Khai St., Dist 3, Ho Chi Minh City

Phone:      (028) 73022 888 – 0908241481

Email:      info@doanduclaw.com

Bài viết mới
Need Help?